Thống kê của Cục Quản lý môi trường cho thấy, mỗi năm trung bình có hơn 370.000 trẻ bị tai nạn thương tích – là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em. Trong các nguyên nhân tử vong do tai nạn thương tích ở trẻ em, thì đuối nước là nguyên nhân hàng đầu với 3.500 trẻ em và vị thành niên từ 0-19 tuổi tử vong mỗi năm tương đương có khoảng 10 trẻ em tử vong mỗi ngày. Những nguyên nhân chính gây ra đuối nước ở trẻ em bao gồm:

  1. Đặc thù về tâm, sinh lí lứa tuổi
  2. Thiếu kiến thức và kĩ năng an toàn
  3. Thiếu sự giám sát của người lớn
  4. Môi trường nước xung quanh tiềm ẩn nguy cơ
  5. Thiên tai

1. Đặc thù về tâm, sinh lí lứa tuổi

Tuổi và sự phát triển

Theo thống kê, trên thế giới, trẻ em ở nhóm 1 – 4 tuổi có tỉ lệ tử vong do đuối nước cao nhất, tiếp theo đó là nhóm 5 – 9 tuổi1. Tương tự ở Việt Nam, trẻ ở nhóm 1 – 4 tuổi có tỉ lệ tử vong cao nhất (12,9/ 100 000), tiếp đến là nhóm 5 – 9 tuổi (11/ 100 000), nhóm 10 – 14 tuổi (5,1/ 100 000).

Ở nhóm trẻ em dưới 5 tuổi (lứa tuổi mầm non): Nguyên nhân đuối nước là do các em chưa có nhận thức và không có khả năng chủ động đảm bảo an toàn khi tiếp xúc với môi trường nước mà phải nhờ sự hỗ trợ của người khác. Vì vậy, tình trạng đuối nước ở trẻ em dưới 5 tuổi thường là hậu quả của việc trẻ bị để một mình hoặc với người chăm sóc không đủ năng lực. Ở các nhóm tuổi khác, khi các em được học tập tại trường tiểu học (từ 6 tuổi trở lên), trung học cơ sở, trung học phổ thông đã hình thành một số kiến thức, kĩ năng về phòng tránh đuối nước và có ý thức, thái độ cao hơn. Tuy nhiên, các em thường có xu hướng vận động nhiều hơn, hiếu kì, thích khám phá, có các hành vi liều lĩnh, thể hiện bản thân. Do không nhận thức đầy đủ được các hiểm hoạ, chủ quan, thiếu kinh nghiệm thực tiễn nên khi không có người lớn giám sát, các em dễ bị đuối nước (WHO, 2008).

Giới tính

Tỉ lệ đuối nước ở nam cao hơn so với nữ ở mọi nhóm tuổi, trừ trẻ nhỏ dưới 1 tuổi. Ở nhóm tuổi từ 15 – 19, tỉ lệ này ở nam cao gấp 2,7 lần so với nữ. Có tình trạng này là do trẻ em nam hiếu động, tò mò và tham gia nhiều hoạt động mạnh hơn nữ ở các hoạt động diễn ra dưới nước hoặc gần vùng nước mở; đam mê nhiều hơn những hoạt động giải trí dưới nước. Theo đó, ở Việt Nam, tỉ lệ trẻ em nam tử vong do đuối nước cao gấp gần 2 lần so với trẻ em nữ (10,7/ 100 000 so với 5,4/ 100 000)

Bệnh lí

Bệnh động kinh làm tăng nguy cơ tử vong do đuối nước ở tất cả các nguồn nước, bao gồm bồn tắm, bể bơi, ao hồ và các vùng nước tự nhiên khác. Trẻ em, học sinh bị động kinh chịu nguy cơ chìm trong nước và đuối nước cao hơn nhiều so với những trẻ bình thường cả ở trong bồn tắm và bể bơi.

2. Thiếu kiến thức, kĩ năng an toàn

Trẻ em, học sinh thiếu kiến thức, kĩ năng để đánh giá, nhận định các nguy cơ, nguy hiểm có thể xảy ra đuối nước khi các em tham gia các hoạt động lao động, vui chơi trong đời sống hằng ngày gần các khu vực sinh sống có nước hoặc khi đi bơi, tắm ở các vùng nước tự nhiên, vùng nước mở. Các em chưa nhận biết được vị trí an toàn để bơi, đa phần hành động theo ngẫu hứng, chưa có thói quen chấp hành quy định an toàn phòng tránh đuối nước.

Nhiều trẻ em, học sinh biết bơi, thậm chí bơi giỏi nhưng vẫn tử vong do đuối nước là vì các em thiếu kiến thức, kĩ năng chủ động phòng tránh và không biết kĩ năng tự cứu và cứu đuối an toàn. Khi học bơi, thường các em được học ở bể bơi hoặc ao, sông,… nơi có giáo viên hoặc cha mẹ và nhiều người ở xung quanh. Ở những nơi này, các em đã được tiếp xúc nhiều và quen thuộc với địa hình nên sẽ cảm thấy tự tin, an toàn hơn. Nhưng khi bơi ở môi trường nước khác, lạ lẫm, nếu bất ngờ gặp sự cố mà các em chưa thành thạo kĩ năng bơi, kĩ năng thoát hiểm thì dễ bị đuối nước. Đã có những trường hợp trẻ em, học sinh bơi giỏi, dũng cảm cứu được nhiều bạn thoát khỏi đuối nước, nhưng bản thân bị đuối sức và tử vong rất thương xót. Ngoài ra, nhiều vụ học sinh bị đuối nước tập thể do các em chưa được trang bị những kiến thức cứu đuối an toàn. Vì vậy, cùng với học bơi, các em cần phải được trang bị những kiến thức, kĩ năng về nhận biết các nguy cơ gây đuối nước, kĩ năng ứng phó với các tình huống khi các em tham gia sinh hoạt trong môi trường sống hằng ngày, khi tham gia bơi, lội để đảm bảo an toàn cho bản thân trước khi được sự hỗ trợ của người khác.

Đọc thêm:

Ngoài ra bạn có thể trang bị kiến thức và kỹ năng an toàn, phòng chống đuối nước qua các khóa học của Kỹ Năng Sinh Tồn SSVN tai:

3. Thiếu sự giám sát của người lớn

Trong nhiều trường hợp vì nhiều lí do khác nhau, trẻ em bị bỏ mặc không được trông nom hoặc thoát li khỏi sự giám sát của cha mẹ, người lớn, người có trách nhiệm, dẫn đến bị ngã, rơi vào vùng nước dẫn tới bị đuối nước.

Trường hợp người giám sát không đủ năng lực như người giám sát là anh, chị còn nhỏ tuổi, người có những hạn chế nhất định về năng lực hành vi, người giám sát trẻ em không biết bơi và không có kĩ năng cứu đuối,.

Trường hợp người giám sát thiếu trách nhiệm như chủ phương tiện giao thông đường thuỷ, chủ bãi tắm, người phụ trách tổ chức sự kiện,. không thực hiện đúng các quy định khi trẻ em, học sinh hoạt động ở gần vùng nước mở hoặc trong môi trường nước.

4. Môi trường nước xung quanh tiềm ẩn nguy cơ

Môi trường nước xung quanh trẻ em, học sinh chưa an toàn, biểu hiện cụ thể như: chum, vại nước, chậu nước, lu, phi nước, bể chứa nước trong chính gia đình không được che đậy cẩn thận; hố các công trình đào sâu nhưng không có biển cảnh báo và rào chắn; thành giếng không đủ độ cao cần thiết; bể bơi, khu vực tắm biển không có người trông coi hoặc người trông coi không biết bơi, thiếu thiết bị cứu hộ, không có kĩ năng cứu đuối, không có biển cảnh báo nguy hiểm,.

Phương tiện đường thuỷ không bảo đảm an toàn kĩ thuật, thiếu thiết bị an toàn như áo phao, xuồng cứu hộ; chở đường thuỷ quá tải cũng là nguyên nhân gây mất an toàn khi cho trẻ em, học sinh đi lại trên sông nước. Các bể bơi, bãi tắm, các vùng nước mở không có người giám sát, lực lượng cứu hộ; các cây cầu bắc qua kênh, mương, sông, suối,. không bảo đảm kĩ thuật, an toàn là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đuối nước.

5. Thiên tai

Do nhận thức, kiến thức, kĩ năng và thể chất, thể lực còn hạn chế, đặc biệt khi thiên tai bất ngờ xảy ra, như mưa lớn, lũ, lụt,. nước dâng nhanh, dâng cao, dòng nước xoáy, chảy mạnh khiến trẻ em, học sinh thường bị hoảng hốt, dễ bị nhấn chìm hoặc cuốn trôi xuống kênh rạch, sông suối, cống thoát nước,. dẫn đến tử vong.

Tham khảo khóa học Sơ cứu chấn thương do lũ lụt

Việc loại bỏ các yếu tố nguy cơ dẫn đến tai nạn đuối nước để tạo ra môi trường an toàn cho trẻ em tại các gia đình, cộng đồng dân cư chưa triệt để; nguy cơ xảy ra đuối nước còn tồn tại ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là các vùng quê, nông thôn, miền núi và những vùng khó khăn về đời sống, kinh tế.

Đọc thêm các bài viết khác về chủ đề Phòng chống đuối nước.

Nguồn tham khảo: Vụ Giáo dục Thể chất – Bộ Giáo dục và Đào Tạo